Nét văn hoá Thăng Long xưa trong “Chuyện cũ Hà Nội” của Tô Hoài

PGS.TS Nguyễn Thị Chiến
Trường Đại học Văn hoá Hà Nội
(ĐHVH) - Một tác phẩm văn học có giá trị bao giờ cũng là câu trả lời những yêu cầu của con người về Tổ quốc, gia đình, diện mạo của mỗi thời của mỗi dân tộc. Đó cũng là phương diện văn hoá của văn học.
Lịch sử văn học Việt Nam đã cho thấy có rất nhiều tác phẩm đạt được như vậy, trong đó có “Chuyện cũ Hà Nội” của Tô Hoài.
Đây là một tập ký sự độc đáo, hấp dẫn người đọc bởi một lối kể chân thực, một cách nhìn thấu đáo hồn hậu, thấm đẫm tình yêu sâu lắng, xót xa mà vẫn tràn trề hy vọng về mảnh đất Thăng Long xưa của Tô Hoài “Chuyện cũ Hà nội” được xuất bản từ năm 1986 gồm bốn mươi truyện. Đến lần tái bản (2004) là 114 truyện với truyện mở đầu là “Phố mới” và kết thúc là “Cửa Thiền” – Cấu trúc tác phẩm đã tạo cảm hứng bao trùm về một đời sống văn hoá Hà Nội xưa: vận động phát triển nhưng vẫn trầm lặng, cổ kính.

Ô Quan Chưởng
Không gian tác phẩm được tái hiện từ các vùng quê ven đô đến 36 phố phường, từ những câu ca dao bình dị kể về sự tích làng Yên Thái, chợ Bưởi, chùa Bà Sách, gái Kẻ cót buôn dăm, trai làng nghề dệt cửu đến làng Vòng, chuyên làm Cốm tới làng Láng mở hội kéo cờ, đến 36 phố phường với âm vang rộn ràng của tiếng leng keng tầu điện với tà áo dài tha thướt của thiếu nữ Hà Nội, tới tiếng đàn, nhịp phách, tiếng hát nỉ non ở phố Hàng Giấy “phố ả đào cổ nhất Hà Nội”(1). Tác giả đã dựng lên một bức tranh rất thực của Hà Nội xưa – nơi quần cư của nhiều con người đến từ mọi miền, hoà hợp với những giá trị tự thân của Hà Nội, tạo nên nét tinh tế, tao nhã của văn hoá Thăng Long.
Điều khác biệt của Tô Hoài so với các nhà văn khác cùng thời viết về Hà Nội, là tác giả đi vào tầng sâu của cuộc sống Hà Nội, cảnh lầm than đau khổ của dân nghèo phố thị bị bóc lột, đè nén, áp bức, cảnh bọn thực dân nghênh ngang đầu phố cuối chợ, nhưng trong mạch sâu của cuộc sống vẫn tồn tại một đời sống văn hoá với bao phong tục, tập quán, lễ hội làm nên sắc diện đặc biệt của cuộc sống Hà Nội xưa. Viết về mảnh đất Thăng Long xưa, như lời tác giả “là tự thuật đời sống tinh thần, vật chất và hoạt động của một địa phương… là khơi gợi và xem xét thấy được lịch sử mỗi vùng làm nên hình ảnh cả nước, cả dân tộc, có nối tiếp và lâu dài. Nó cũng là kỷ yếu đời người, bài học hôm nay và mai sau”(2).
Từ quan điểm đó, Tô Hoài đã dựng lên diện mạo Hà Nội từ hai phương diện: Văn hoá vật chất với cảnh sống cực khổ của người dân nô lệ mất nước và văn hoá tinh thần với vẻ đẹp của phong tục tập quán, lễ hội, văn học dân gian và sức mạnh tinh thần bền vững.
Đề tài về Hà Nội đã từng được viết bởi nhà văn Nguyễn Tuân với những nét hào hoa, hoành sảng, một Hà Nội nhiều sắc mầu tươi mát lãng mạn của Vũ Bằng với “mùa xuân của Hà Nội là mùa xuân có mưa liêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh”, là “mộng về Hà Nội đi với vợ trên con đường hò hẹn thơm thơm mùi hoa sấu”(3). Hay một Hà Nội của Thạch Lam với những món ăn tinh tế, những ký ức ấm áp ngày tết với “đêm đông, gió lạnh” bên lò bánh chưng ấm áp… “cả nhà ngồi vây quanh, nghe tiếng nước reo mà kể chuyện cũ”(4).
Riêng với Tô Hoài, từ một cách nghe, cách cảm xúc một cách nhìn, gương mặt, tâm hồn của những con người Hà Nội xưa, đã chạm vào tầng sâu của đời sống con người Hà Nội cũng là của cả dân tộc người Việt Nam: sẽ ra sao khi còn bị nô lệ bởi ngoại bang? Chất liệu tạo nên hồn cốt tác phẩm chính là hiện thực đời sống Hà Nội trong nô lệ tủi nhục, đau thương của thời kỳ thuộc Pháp. Hình ảnh “mưa” hiu hắt buồn lặng xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm đã nói lên tất cả “có lẽ mưa bụi đã nhiều ngày, những cây nhội che mái nhà, người qua lại trên mặt đường âm u, xám ngắt, nhẽo nhợt ra”… “…cái nhà bán thừng, bán chiếu mưa hắt thâm sì”(5), “Phố mới” nhưng thực ra là “cái chợ mua bán người” người nào cũng “ủ ê, hốt hoảng, ướt át, bẩn thỉu” “cả đến cái ngách cửa hậu vào chợ Đồng Xuân cũng lôi ra được một nút người sầu thảm như thế”(5) thực sự, không ai hình dung chợ Đồng Xuân xưa là nơi buôn bán tấp nập lại là một nơi buôn người kinh sợ như vậy.
Phải trải qua nhiều năm tháng tích luỹ vốn sống, kinh nghiệm, tự gắn mình vào đời sống hiện thực Hà Nội những năm tháng đó, đã tạo nên nền tảng văn hoá của cá nhân nhà văn, nên, dù Hà Nội là đề tài đã có nhiều nhà văn khám phá nhưng trong tác phẩm của Tô Hoài vẫn hiện lên những nét mới, những nhận thức mới về mảnh đất Thăng Long xưa, là bức ký hoạ với những nét buồn mong manh bằng hình tượng ngôn từ sống động.
Phải sống thật, thâm nhập sâu vào đời sống Hà Nội xưa mới biết được nỗi nhục của dân nghèo thị thành từ những hình ảnh cụ thể: “thời ấy, nuôi cái xe đạp nhọc lắm. Xe phải gắn một mảnh sắt, mảnh kền khắc tên, số nhà, tên phố của chủ xe. Không có phạt. Đè nhau phạt, trông cái xe mướp quá, ngứa mắt, cũng phạt”(6) thuở đó, “nhan nhản toàn nhà tranh, tường đất mấp mô như những con rùa bò” đêm tiếng “chim cuốc hoàng hôn về kêu khắc khoải”. Nhà văn đã chạm đến đời sống khốn khổ của Hà Nội xưa mà hầu như ít nhà văn nào nói đến”. Thủa xưa, người ta mải miết đi kiếm ăn, kiếm gần chẳng ra, phải bò ra xa, tận Đất đỏ, Dầu Tiếng trong “sa ghềnh” đi không về, nhiều lắm”(7): Nhiều chi tiết, tưởng như chỉ vô tình ghi lại nhưng đắng xót tận đáy lòng, “các ông tây ăn trên ngồi trốc, còn thì người ta bới bèo tìm bọ, sinh sống trên lưng nhau, nuôi lẫn nhau… Thất thểu đi tìm việc qua đêm qua ngày”(8). Trong cái nhìn rất riêng, thăm thẳm, nhà văn Tô Hoài đặc biệt thể hiện thành công một mảng sống của người Hà Nội xưa, từ thợ củi, thợ giầy, lầm than bụi bặm, đói khổ, từ cảnh các làng quê ven nội chìm trong cảnh Tây đoan bắt rượu lậu dẫn đến thảm cảnh người dân nghèo phải “đi tù rượu thay để vợ con ở nhà có người nuôi”, đến cảnh ở vọng, cổng rong, chợ Mơ, bến chợ trâu Hà Đông, Cầu Gỗ, cầu Cuối…” nhan nhản người tàn tật, ăn mày, ở đâu cũng “ai oán vang lên tiếng nức nở trên môi là câu kẻ khó xin ăn”(9) là hình ảnh buồn nao lòng cảnh đòi nợ, người chủ nợ và kẻ nợ đều nghèo, quá nghèo nên mỗi năm vào dịp những ngày áp tết, chủ nợ đến đòi, cũng chỉ biết nhìn nhau, năm nào cũng vậy và kết thúc là lời hẹn “sang giêng… sang giêng” để rồi chẳng bao giờ trả nổi món nợ. Những hình ảnh rất thực của đời cứ đan cài vào nhau, tạo nên dòng mạch ngược xuôi của cuộc đời lam lũ. Từ những trang miêu tả làng ven đô, Tô Hoài hướng ngòi bút vào vùng nội đô Hà Nội “cái tàu điện, phố mới, phố Hàng Đào, phố Hàng Ngang, phố Nghề cơm đầu ghế, chiếc áo dài, cây Hồ Gươm với bao nhiêu ký ức về một thời nhếch nhác, kệch cỡm của một đô thị đang dần đô thị hoá, nhố nhăng… mỗi câu chuyện là một dòng ý thức với bao trải nghiệm, không giải thích, không bình luận nhưng chỉ một nhận xét ngắn ngủi cũng tạo cảm xúc sâu xa về mảnh đất Thăng Long xưa.
Tuy nhiên, về một phương diện khác, phương diện văn hoá tinh thần, tác phẩm ánh lên những nét đẹp của lễ tết, phong tục tập quán, lễ hội, là tâm hồn trong sáng, bình dị tiềm ẩn trong các mối quan hệ hàng ngày mà vẫn đầy sức mạnh và khát vọng đổi thay của người Hà Nội băm sáu phố phường trong những năm tháng đó.
Từ góc nhìn chung của văn hoá Việt, lễ hội bao giờ cũng tạo nên một không gian sống thực yên ấm, no đủ, hạnh phúc ngay cả khi cuộc sống còn đói khổ cùng cực. Cả năm có một ngày như thế: đó là tết, ngày của sum họp gia đình, nhưng cũng là ngày rất cơ cực của người dân nghèo Hà Nội thời đó “nhà nghèo chạy cái tết bở hơi tai” nhưng vẫn chuẩn bị cho ngày đó với tất cả tâm hồn cho người sống và cho cả tổ tiên ông bà “đến hôm tất niên mới mò được ra chợ mua miếng thịt lợn, nén hương, gọi cho là có tết nhất”, những ngày áp tết được tác giả ghi lại với vài chi tiết đơn giản “miếng thịt lợn nén hương” nhưng tác giả đã tạo dựng nên cả một ngày linh thiêng quan trọng của người dân nghèo Hà Nội xưa, là nét văn hoá gia đình người Việt – gia đình bao gồm cả người chết nên ngày tết có thăm mộ, cúng tổ tiên, thắp hương cầu cho may mắn cả năm. Nét vui của tết lại hiện lên trong niềm vui hồn nhiên của trẻ thơ “bánh pháo tép”, “miếng khế khô lẫn mật gừng”, “đôi guốc mộc mới”... Phải chăng, nét đẹp của ngày tết là ngày tiếp khách thăm hỏi nhau, ân cần, tha thứ cho nhau vì đấy là ngày “thân phận mỗi người được quý trọng” là ngày mừng nhau mọi sự tốt lành ngay cả trong cuộc sống khổ cực”.
Một nét văn hoá của Hà Nội xưa của cha ông để lại đã làm đẹp, làm vui thêm cuộc sống vốn quanh năm nghèo túng bằng cái tết được kéo dài. Sau ngày tết nguyên đán “còn có những ngày râu ria mà nhà nghèo rớt mồng tơi cũng phải có được gói hoa, nén hương”. Đó là “ngày giỗ tổ” tổ nghề giấy, nghề lụa, hai mươi ba tết, ông công ông táo, “chiều ba mươi cúng trừ tịch, mồng 3 – 4 lễ hoá vàng, mồng bảy hạ cây nêu, nhà nào dệt vải đưa mấy nhát thoi lấy may đến cúng rằm tháng giêng sang tháng ba lại tết bánh trôi, bánh chay, tháng năm tết Đoan Ngọ mừng hoa quả mới. Ở các cửa đền miếu đều có cúng quan ôn, cúng cháo vẩy ra bờ bụi cho các âm hồn bơ vơ lang thang được hớp nước ngũ cốc, ngọc thực”(10), đến tết trung thu tháng tám và khi gió heo may về, vào mồng mười tháng mười tết cơm mới. Điều thú vị là, các làng nghề giấy, nghề lụa không làm ra thóc nhưng cũng “cúng cơm mới” thể hiện tâm thức của cư dân nông nghiệp, lễ hội theo mùa. Sau lễ tết đến hội hè. Làng Mọc tháng giêng vào hội đánh cờ người, tháng tám hội đền Ghềnh, hội rước kiệu bò ở Đền Trại, Thủ Lệ, hội làng Đông, làng Hồ rước về đền Voi Phục, trong sân đình có hội thi cây cảnh... cả một không gian rực rỡ sắc mầu “90 giàn lễ hội áo the, quần lĩnh tía, khăn vuông láng thâm, khăn nhiễu thanh, áo cánh lụa thâm, quần túm ống vào trong xà cạp hoa đào”(11) tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng cọt kẹt của đu quay cùng tiếng hát hoà điệu trong vùng Thăng Long xưa gợi lên bao nét đẹp riêng của đời sống văn hoá kinh thành. Bởi lễ hội là một sản phẩm và là một biểu hiện của nền văn hoá, tham gia lễ hội là thể hiện một cách ứng xử văn hoá của người Hà Nội, họ tìm trong đó sức mạnh của tình đoàn kết, tinh thần tương thân tương ái. Điều này được miêu tả thật sinh động trong đám rước Thánh Tăng. Lễ hội mà không cờ, không kiệu, không trống chiêng thanh la… Nhưng không khí lễ hội thật tưng bừng, náo nhiệt, rất lạ và thú vị”. Thực sự đây là một lễ hội “phồn thực”, “cả một cánh đồng huyên náo sùng sục, kỳ quái… toàn trai gái cứ xông vào nhau cật lực, như đánh vật, lại như đập lúa… Tiếng cười rú, tiếng hí, tiếng hú, tiếng sút rầm rầm(11). Lễ hội cư dân ngoại ô kinh Thăng Long nhưng vẫn mang những nét hồn hậu, phóng khoáng của cư dân nông nghiệp Việt Nam, mang khát vọng đời sống ấm no, khát vọng về giải phóng tình cảm con người khỏi những luật lệ cấm kỵ của xã hội phong kiến. Vẻ đẹp thuần khiết, giản dị mà hồn nhiên của người lao động được tái hiện thật độc đáo trong cảm xúc chân thành, nhân hậu của nhà văn.
Dựng lại đời sống đất kinh kỳ xưa bằng hình tượng ngôn từ, tập truyện tạo nên cảm xúc thiết tha cho mọi người đọc về một thủ đô ngàn năm với bao chuyện khổ đau, nhọc nhằn ở một thời nô lệ tối tăm nhưng tiềm ẩn trong mảnh đất kinh kỳ vẫn là một sức sống, một khát vọng thay đổi, một vẻ đẹp lặng thầm, cổ kính. Trong truyện: Truyền bá quốc ngữ vùng Bưởi” đã cho ta một niềm vui về một sự thay đổi vô cùng kỳ thú. Đó là dân các làng nghề Vạn Phúc, làng nghè, làng Đáy, làng Vòng đến Hồ Gươm “Phiên chợ nào cũng có cán bộ về diễn thuyết kêu gọi theo Việt Minh đánh Pháp đuổi Nhật” và hàng trăm người, đông nhất là thanh niên, thợ nghèo, người làm mướn, quét chợ, chăn bò, chăn dê đến các cô thợ seo ghi tên học chữ quốc ngữ, tối nào cũng đến lớp mặc cho những đêm mùa hè khói tù mù khẹt nẹt, mồ hôi nhễ nhại, muỗi ở dòng nước sông Tô Lịch thổi đen ngòm “muỗi bay ào ào lên mặt cả thầy và trò”(12) – Có lẽ, đây là khoảng lặng đẹp nhất, nêu rõ bản chất tầng sâu văn hoá của người Hà Nội xưa: trong khổ đau vẫn thiết tha hướng đến lý tưởng nhân văn tốt đẹp: tự nhận thức mình, thay đổi mình là bằng mọi giá, nâng mình lên để kịp thời cơ đón nhận ngọn gió cách mạng dành chính quyền 1945 lịch sử và từ đó vận động, phát triển lên, rạng rỡ, đẹp, hào hùng cho đến thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh.
Tác giả Tô Hoài, một nhân chứng của Thăng Long gần một thế kỷ thăng trầm, một Thăng Long – Hà Nội trong xưa cũ tối tăm, có một Hà Nội ngày nay vươn mình đứng dậy sau bao năm kiên cường đấu tranh, xây dựng, có những phong tục, lễ hội của Hà Nội xưa nay không còn nhưng cốt cách, tâm hồn của một thủ đô ngàn năm văn hiến vẫn hiện rõ trong từng chữ, từng trang viết của Tô Hoài. Giải thưởng “Vì tình yêu Hà Nội” mà tác giả vừa được nhận vào đầu tháng 9/2010 ghi nhận và khẳng định giá trị hiện thực và nhân văn của “Chuyện cũ Hà Nội”.
Tài liệu tham khảo, trích dẫn:
(1) Đào hát, đào rượu (Tr. 29)
(2) Sự tích làng (Tr. 369)
(3) Tháng 10 nhớ gió bấc mưa phùn trích thương nhớ mười hai - Vũ Bằng
(4) Trước tết và sau tết Thạch Lam (Hà Nội 36 góc nhìn) – NXB Thanh Niên 2002
(5) Phố mới (Tr. 12)
(6) Cái xe đạp (Tr. 31)
(7) Những nhà hàng xóm (Tr. 35)
(8) Băm sáu phố phường (Tr. 46-47)
(9) Cái tầu điện (Tr. 87)
(10) Đón giao thừa (Tr. 236)
(11) Đức Thánh Tăng (Tr. 218)
(12) Truyền bá quốc ngữ vùng Bưởi (Tr. 131)
Nguồn : Cục di sản văn hóa


